Chủ Nhật, 31 tháng 5, 2015

Việc làm cho người khuyết tật và kiến nghị hoàn thiện chính sách

Đào tạo và việc làm cho người khuyết tật (NKT) là lĩnh vực ưu tiên thứ 4 của khuôn khổ hành động thiên niên kỷ Biwako. Trong 7 lĩnh vự ưu tiên, UNESCAP khuyến khích 2 lĩnh vực quan trọng nhất để đảm bảo sự bình đẳng và hòa nhập của NLT, đó là giáo dục và việc làm. Năm 2006, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án trợ giúp người tàn tật giai đoạn 2006 - 2010, đến nay, qua gần 4 năm thực hiện, nhưng  nhiều chỉ tiêu có khả năng không hoàn thành, trong đó có chỉ tiêu về việc làm cho người khuyết tật: "khoảng 80 nghìn người tàn tật được học nghề và tạo việc làm phù hợp tại các cơ sở dạy nghề, sản xuất, kinh doanh, dịch vụ thuộc mọi thành phần kinh tế trên địa bàn cả nước". Vì vậy, cần phải nhìn nhận lại thực trạng, nguyên nhân và tìm giải pháp phù hợp. Hơn nữa, cùng với sự quan tâm, hổ trợ của Nhà nước và cộng đồng, bản thân NKT đã có nhiều cố gắng vươn lên, khẳng định khả năng của mình trên mọi lĩnh vực. NKT là một lực lượng lao động không nhỏ trong xã hội và đòi hỏi phải được bảo vệ bằng luật pháp để đảm bảo quyền bình đẳng tham gia vào hoạt động của xã hội, trong đó có quyền bình đẳng về việc làm bền vững.

Ngày 22 -23/9 tại thành phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng, Ủy ban về các vấn đề xã hội của Quốc hội và Dự án DANIA (Đan Mạch) đã phối hợp tổ chức Hội thảo ''Pháp luật và chính sách về việc làm". Mục tiêu hội thảo là tạo diễn đàn để các đại biểu Quốc hội, các nhà Khoa học, những người hoạt động thực tiển trao đổi, thảo luận qui định hiện hành của pháp luật Việt Nam về việc làm và những vấn đề đặt ra; kinh nghiệm quốc tế về chính sách, pháp luật về việc làm. Đồng thời kiến nghị về việc xây dựng Luật việc làm và sửa đổi, bổ sung Bộ luật lao động. Tại Hội thảo, TS.Nguyễn Đình Liêu - Chủ tịch Hội Bảo trợ và trẻ mồ côi Việt Nam đã có bài tham luận "Việc làm cho người khuyết tật và kiến nghị hoàn thiện chính sách" Tạp chí Người Bảo trợ xin giới thiệu một số nội dung bài tham luận này.

MỘT SỐ NÉT VỀ VIỆC LÀM CHO NGƯỜI KHUYẾT TẬT Ở VIỆT NAM

* Tỷ lệ NKT có việc làm rất thấp
Trong số 5.3 triệu NKT thì có 60% trong độ tuổi lao động, số còn khả năng lao động chiếm 40%, số đang tham gia lao động chỉ có 30%, khoảng 3% chưa đào tào nghề. Người có việc làm phù hợp và ổn định chỉ chiếm 15% là một con số quá ít. Hơn 80% NKT sống ở nông thông, phần lớn họ sống cùng gia đình. Số có làm việc thì đại bộ phận là lao động thủ công như: Làm tăm tre, chổi đót, đan lát, trồng trọt và chăn nuôi....Họ làm việc cùng nhau trong tổ, nhóm ở cùng một thôn, bản, làng, xóm nhưng cũng có thể làm việc làm việc theo đơn lẻ tại gia đình. Hiện cả nước có hơn 400 cơ sở này, với khoảng 20.000 lao động NKT đang làm việc với qui mô lớn, nhỏ khác nhau.

Có nhiều nguyên nhân khiến NKT ít có cơ hội tìm được việc làm, trong đó, trước hết là do trình độ văn hóa thấp, không được đến trường vì nhiều lý do 41% NKT từ 6 tuổi trở lên không biết chữ, số còn lại thì chủ yếu dừng lại cấp 1, cấp 2. Trong khi đó, muốn có nghề, có việc làm thì phải có trình độ văn hóa nhất định.

Để tăng cơ hội việc làm cho NKT, pháp luật quy định tỷ lệ bắt buộc nhận NKT vào làm việc trong các doanh nghiệp, nếu không nhận đủ thì phải nộp một khoản tiền vào quỹ việc làm cho NKT. Nhưng quy định này chưa thấy có hiệu quả trong thực tiễn, mới chỉ có 8 tỉnh, thành phố thành lập Quỹ Việc làm. Nếu các quy định được thực hiện nghiêm túc thì sẽ có một khoản tài chính đáng kể, tăng cường cho việc tổ chức đào tạo nghề cho người khuyết tật nhiều hơn, nhưng chưa sự quan tâm đầy đủ, đồng thời cũng thiếu giám sát và đôn đốc, cũng như chưa có những biện pháp chế tài hữu hiệu.


Thực tế cho thấy, số NKT trên tỷ lệ dân số của mổi quốc gia đang ngày một tăng cao hơn. Ở Việt Nam, nguy cơ từ tai nạn giao thông, tai nạn lao động, dịch bệnh, thiên tai, nghèo khó.. khiến số lượng NKT có xu hướng gia tăng. Thế nhưng, hoạt động can thiệp sớm, phòng ngừa khuyết tật, phục hồi chức năng để giảm thiểu khuyết tật chưa được quan tâm đúng mức nên giải quyết các hậu quả của khuyết tật trong đó vấn đề việc làm ngày càng nặng nề.

* NKT gặp khó khăn trong tìm việc làm
Trong quá trình tiếp cận cơ hội học nghề, tìm việc làm, NKT gặp rất nhiều khó khăn. Thiếu thông tin về học nghề, việc làm là một trong những trở ngại, nhất là người khiếm thính. Để khắc phục cần có sự quan tâm của gia đình, đoàn thể, tổ chức hội, chính quyền địa phương giới thiệu, cung cấp thông tin cho NKT, những điều này không được như mong đợi. Cùng với đó là bản thân NKT còn tự ti không mạnh dạn liên hệ hoặc chủ động đề nghị giới thiệu, giúp đỡ.

Anh Lê Quang Tuấn , sinh 1974, quê xã Hải Yến, Tỉnh Gia, Thanh Hóa bước vào nghề ăn xin cách đây 5 năm với lý do phải tự nuôi thân. Anh Tuấn cho rằng: "Học nghề thì cần phải có nhiều văn hóa. Mình học hết lớp 5, người thì trông như thế này, làm gì có ai nhận dạy nghề, tạo việc làm cho". Bởi vậy, anh Tuấn chưa từng nghĩ xem mình có thể làm việc gì bằng sức lao động chính đáng mà tự cho mình chỉ có thể đi ăn xin. Điều đáng buồn là gia đình anh còn bố mẹ, anh chị cũng ủng hộ việc anh đi ăn xin khắp nơi.

Rào cản giao thông cũng là thách thức không nhỏ. Quy định cấm xe 3 bánh chở hàng, nhưng đồng thời lại chưa có giải pháp tháo gỡ thỏa đáng khiến một bộ phận NKT sống bằng nghề chở hàng xe ba bánh mất việc, không có thu nhập và cũng chưa chuyển đổi nghề khác phù hợp. Đi lại bằng giao thông công cộng thì xe buýt không tiếp cận được, thái độ phục vụ còn thờ ơ. Đến đi lại bằng đường hàng không còn trường hợp bị từ chối phục vụ. Khó khăn trong đi lại đồng nghĩa với khó khăn tìm kiếm việc làm (trừ một số người làm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, nhận gia công tại nhà....)

Rào cản về môi trường xây dựng như: Trụ sở nơi làm việc, cơ sở học nghề không có lối đi NKT. Rào cản về nhận thức khi hầu hết chủ doanh nghiệp cho rằng sử dụng NKT sẽ thêm nặng trách nhiệm, tốn kém. Còn ở địa phương vẩn tồn tại nhận thức giải quyết việc làm cho người lành còn chưa xong, làm sao lo được cho NKT. Nhận thức này sai lầm, vì tình trạng thất nghiệp là một tồn tại xã hội, không giải quyết triệt để được. Nếu việc gì cũng phải chờ lo cho xong người lành mới đến NKT thì họ không bao giờ có cơ hội việc làm.

Quy định NKT làm việc 7h/ngày kiến nhiều doanh nghiệp ngại tuyển dụng NKT vì không đảm bảo hoạt động sản xuất bình thường. Với một số công việc đòi hỏi trình độ cao, NKT có thể đáp ứng nhưng không được sự quan tâm đào tạo. NKT tự tạo việc làm gặp nhiều khó khăn trong tiếp cận vốn vì vay Ngân hàng Chính sách thì không có tài sản thế chấp, thủ tục vay vốn phức tạp....

GIẢI PHÁP THÁO GỠ VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN CHÍNH SÁCH

* Cần sự quan tâm của các nghành và toàn xã hội
Để cải thiện tình trạng trên, nâng cao cơ hội đào tạo nghề cho người khuyết tật, có việc làm cần sự phối hợp đồng bộ, có hiệu quả của các nghành hữu quan và sự quan tâm của cả cộng đồng. Phải phổ cập và nâng cao trình độ văn hóa cho NKT, tạo điều kiện cho họ học tập và học càng cao càng tốt. Cần đào tạo cho NKT ở mọi trình độ văn hóa. Đào tạo nghề phải gắn với tạo việc làm, có thu nhập. Quan tâm đến vấn đề can thiệp sớm, phục hồi chức năng ngay từ khi còn nhỏ để tránh khuyết tật nặng, tránh gây khó khăn trong học nghề và tìm việc làm sau này.

Tạo điều kiện cho NKT đi lại thuận lợi. Các cơ quan, doanh nghiệp, cơ sở giáo dục, đào tạo, dạy nghề phải sửa chửa, cải tạo cơ sở vật chất để NKT tiếp cận và sử dụng. Nếu như cùng chung một nghành nghề, một môi trường làm việc, thì hãy quan tâm chia sẽ và ưu tiên hơn 1 chút cho những người NKT. Thay đổi nhận thức của chủ sử dụng lao động về khả năng làm việc của NKT, thay đổi định kiến cho rằng NKT không đảm bảo sức khỏe làm việc, nhận NKT thêm phiền phức, tốn kém, kinh doanh không có lãi. Bên cạnh những lợi ích của việc sử dụng lao động NKT, cần phải nhận thức đây cũng là trách nhiệm đối với xã hội. Vì nếu không được làm việc thì NKT sẽ phải sống phụ thuộc, gánh nặng gia đình và cộng đồng.

Thông tin về dạy nghề, việc làm cho NKT phải đến được NKT. Nên thông qua tổ chức tự lực của NKT, tổ chức vì NKT để tuyên truyền về các chương trình, các dự án, khóa học nghề, tuyển dụng NKT để họ nắm được thông tin và đăng ký tham dự. Cần tổ chức nhiều hơn hội chợ việc làm, ngày hội tuyển dụng dành cho NKT....

* Tiếp tục hoàn thiện chính sách
Cần nghiên cứu, có cơ chế phù hợp về việc NKT làm việc 7 giờ/ngày. Cần có quy định về ngành nghề dành riêng cho NKT. Cần chặt chẽ hơn trong các quy định về tổ chức dạy nghề cho NKT như: Giáo án phù hợp, chính sách thỏa đáng cho giáo viên dạy văn hóa, dạy nghề, phiên dịch cho người khiếm thính. Thời gian học nghề đối với NKT cần phải linh hoạt, tăng thêm thời gian so với người không khuyết tật. Tạo điều kiện cho NKT tiếp cận các nguồn vốn vay, hổ trợ kinh phí cho các tổ chức tự lực, cơ sở sản xuất kinh doanh của NKT. Đặc biệt quan tâm và tạo điều kiện cho đơn vị, cơ sở của NKT tự tạo việc làm phát triển như: Cho họ được tham gia thực hiện các dự án, chương trình về việc làm cho NKT; ưu đãi về vốn, thuế, mặt bằng, địa điểm tổ chức sản xuất, được tham gia tập huấn về quản lý.... Không nên chỉ dành chính sách ưu đãi đối với cơ sở sản xuất, kinh doanh mà nên mở rộng chính sách ưu đãi đối với cơ sở của NKT ở các lĩnh vực như: dịch vụ du lịch, dịch vụ tư vấn, .... Vì hiện nay, NKT đã có mặt và tham gia vào mọi lĩnh vực của cuộc sống.

Lồng ghép vấn đề việc làm cho NKT vào các chương trình xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm cho lao động nông thôn. Phải tách riêng kinh phí dạy nghề để tạo tạo việc làm cho NKT, không để chung với kinh phí hổ trợ hổ trợ cho nông dân. Tạo thuận lợi và ưu tiên tiêu thụ, tìm đầu ra cho sản phẩm đảm bảo chất lượng do NKT sản xuất, tương tự ưu tiên dành đường, chổ đổ xe ... Cho NKT.

Có chính sách khuyến khích đào tạo nghề cho người khuyết tật tại cộng đồng. Vì phần lớn NKT sống ở gia đình, gắn với cộng đồng dân cư nên hướng dạy nghề, tạo việc làm cho NKT ở cộng đồng là thích hợp và thuận tiện nhất. Đầu tư nâng cao năng lực, trang thiết bị kiến thức, kỹ năng, tay nghề, phát huy tài năng của lao động NKT. Với NKT ở vùng xâu, vùng xa, khu vực nông thôn, nên quan tâm và nâng thành tầm chiến lược cấp quốc gia thực hiện "Chương trình tạo việc làm tại chổ", tạo điều kiện cho NKT và gia đình của họ tự tạo việc làm.

Anh Phạm Trọng Hoàn, sinh năm 1975 (xã Thái Tân, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình) bị khuyết tật chân từ nhỏ, nhưng luôn khao khát được làm việc bằng sức của mình. Ngoài kinh doanh vàng bạc, anh còn mở thêm nghề thêu ren và cơ sở chuyên may đồ bảo hộ lao động tạo việc làm cho trên 70 NKT, thu nhập tối thiểu 1 triệu đồng/tháng, có chổ ở và hổ trợ ăn trưa. Doanh nghiệp đã được cấp 3.000m2 đất để xây dựng nhà xưởng và ký túc xá cho công nhân. Tuy nhiên, hiện doanh nghiệp còn gặp nhiều khó khăn trong việc vay vốn để xây dựng, hoàn thiện nhà xưởng, hổ trợ mua sắm máy móc trang thiết bị, mở rộng quy mô sản xuất, thu hút thêm lao động khuyết tật làm việc. Doanh nghiệp cần được hổ trợ kinh phí dạy nghề và xây thêm nhà nội trú cho NKT.

HỘI BẢO TRỢ NGƯỜI TÀN TẬT VÀ TRẺ MỒ CÔI VIỆT NAM VỚI VIỆC LÀM CHO NKT

Trước thực trạng và những khó khăn của NKT trong tìm việc làm, những năm qua, Hội Bảo trợ người tàn tật và trẻ mồ côi Việt Nam đã xây dựng chương trình tạo việc làm cho NKT là 1 trong 5 hoạt động trọng tâm của Hội. Trong đó, trước hết chú trọng phát triển mô hình dạy nghề, truyền nghề phù hợp với tạo việc làm tại cộng đồng. Mô hình này được thực hiện thành công ở các địa phương có làng nghề truyền thống như: nghề khảm trai ở Ngọ Hạ (huyện Phú Xuyên, Hà Nội), nghề chạm bạc, kim hoàn ở xã Minh Thắng (Vũ Thư, Thái Bình); một số doanh nghiệp, cơ sở sản xuất, hộ gia đình có các nghề mây giang đan, thêu ren móc chỉ, thủ công mỹ nghệ, may mặc, cơ khí, sửa chửa điện tử....

Có nhiều hình thức dạy nghề, truyền nghề gắn với giải quyết việc làm như: Tập trung theo lớp, xen ghép giữa người lành và NKT, tổ chức tại xưởng sản xuất, tại nhóm, hộ gia đình, kèm cặp vừa học vừa làm, cầm tay chỉ việc.... Về quy mô, có nơi 30 - 50 người nếu có địa điểm rộng. Có nơi chỉ kèm dạy từ 3 - 5 người tại nhà. Thời gian học nghề cũng linh hoạt, theo yêu cầu của từng nghề và dạng khuyết tật (đặc biệt đối với người bị câm điếc, người mù...), thường từ 2 -6 tháng, đặc biệt là ngay trong quá trình học nghề đã có thể tạo ra sản phẩm, có chút ít thu nhập. Đây là điểm thuận lợi cho NKT, là nguồn động viên to lớn và lại có thu nhập ngay để trang trải cuộc sống.

5 năm qua, các cấp Hội đã tổ chức dạy nghề cho 12.773 NKT, trong đó có 3.480 người được dạy nghề từ Chương trình mục tiêu quốc gia và 9.293 người từ các nguồn của Hội, trong đó khoảng 80% học nghề tại các cơ sở cộng đồng, kết quả có tới 85% vó việc làm ổn định. Về thu nhập, tuy chưa cao, nhưng NKT đã có thể tự hào không phải là người hoàn toàn sống dựa vào gia đình. Thêm nữa, được làm việc, có thu nhập giúp NKT sống tự tin, hòa nhập tốt hơn.

Việc làm có ý nghĩa quan trọng đối với NKT, lực lượng lao động khuyết tật có đóng gióp không nhỏ cho sự phát tiển cho sự của nền kinh tế đất nước. Việc làm giúp NKT nâng cao vị thế và cải thiện chất lượng cuộc sống. Người sử dụng lao động và các nghành chức năng, cộng đồng cần nhìn nhận đúng về khả năng lao động của NKT và thể hiện tinh thần trách nhiệm đối với vấn đề việc làm cho NKT. Các chính sách, quy định pháp luật về vấn đề việc làm cho NKT phải có biện pháp chế tài, đảm bảo thực thi và kiển tra giám sát thực hiện. Có như vậy mới giải quyết được việc làm cho NKT một cách có hiệu quả và đảm bảo tính ổn định, bền vững./.
Theo nhandao.net.vn/

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét